Điều lệ phố Đình Kim Ngân Nay là phố Hàng Bạc, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Quan viên, thượng thọ, thượng toát, trùm lệnh trưởng trên dưới phố đình Kim Ngân lập Điều lệ.
Thường nghe, triều đình có phép tắc của triều đình, làng xóm có lệ của làng xóm. Huống hồ phố ta vốn có nghề riêng là của báu Quốc gia. Nếu không có Khoán lệ ràng buộc thì lấy gì cấu kết lòng người. Nhân đó, tham chước cổ lệ mà định cách thức mới. Các điều lệ kê ra sau đây:
Điều thứ 1: Lệ lễ Giao thừa: Cau trầu 100 miếng, chuẩn giá tiền 1 mạch 40 văn, rượu tinh khiết 1 chai chuẩn giá tiền 18 văn. Lễ Thường tân cũng sắm như vậy.
Điều thứ 2: Lệ tháng Giêng từ tết Nguyên đán đến ngày mồng Hai, mồng Ba mỗi ngày dâng gà 1 con, xôi 1 mâm, trầu cau 60 miếng, rượu 1 chai, chân giò 1 chiếc, mỗi lễ chuẩn giá tiền 1 quan. Đương trưởng ăn mặc quần áo tề chỉnh đến rất sớm để thông báo cho bản chỉ thị hành lễ. Lễ xong bày cỗ bàn để các vị có mặt thụ lộc.
Nay định lệ.
Điều thứ3, Hàng năm vào tháng Giêng từ tết Nguyên đến ngày mồng Sáu, ngày nào cũng dâng lễ cau tràu 60 miếng, chuẩn giá 1 mạch tiền, rượu 1 chai chuẩn giá 18 văn tiền.
Điều thứ 4: Hàng năm vào tiết Khai hạ, dâng lễ gồm 1 con lợn, xôi 1 mâm, tiền giấy 100 tờ, cau trầu 100 miềng, rượu tinh khiết 1 chai. (Tất cả) chuẩn giá tiền 5 quan, còn như khi khá giả thì không theo lệ này. Còn đồ lễ chín như lưỡi, lòng đồi, đại tràng và nội tạng thì cho lên đĩa bát ngọc 1 mâm. Thủ lợn, đuôi, chân giò, thịt lợn và xôi thì bày ở các mâm. Đến giờ, Đương trưởng thông báo trên dưới có mặt đầy đủ ăn mặc tề chỉnh áo quần hành lễ, ai vắng mặt cho gọi về. Lễ xong, các lễ vật là nội tạng, đầu, đuôi lợn thì kính biều Giáp bàn, chân giò thì biếu trùm giáp, còn cỗ ở mâm ngọc chia đều cho dân trong phường. Số còn lại, bày làm cổ để người có mặt thụ lộc. Còn thịt lợn thì chia đều các viên trong ngoài phố, mỗi viên 1 phần, nội thị 12 phần, sau đó đến Giáp bàn và Giáp trưởng, dân nhập trạch 1 phần, cỗ mâm ngọc 1 phần.
Điều thứ 5: Hàng năm vào mồng Hai tháng Hai lễ Nhập tịch, lấy ngày 29 tháng Giêng hội họp có mặt đầy đủ bài trí đồ vật và cắt cử chấp sự. Nếu ai vắng mặt sẽ bị phạt 3 mạch tiền cổ hoặc có ai đi xa mà vợ sinh con, hoặc bị bệnh đậu thì trình cau trầu chuẩn giá 1 mạch tiền.
Điều thứ 6: Hàng năm tháng Hai lễ Nhập tịch, chọn người tế ở các giáp bàn, gồm những vị có chân chức sắc ở xã; hàng văn thì chọn từ bàn ất đến bàn trưởng, gồm những người đỗ đạt và có chân chức sắc, nhiêu ấm; còn như người chấp sự thì từ giáp bàn trở xuống chiếu theo Tục lệ của bản phố mà lựa chọn.
Điều thứ 7: Hàng ngày bài trí tế khí do trưởng bàn chọn, nếu tế khí bị khiếm khuyết thì bắt phạt người bài trí không tha.
Điều thứ 8: Hàng năm vào tháng Hai từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc lễ Nhập tịch, bản phố túc trực đêm ngày nghiêm ngặt tại đình. thì châm chước. Ai vắng mặt mỗi đêm bị phạt 1 mạch tiền cổ. Duy người có đại tang
Điều thứ 9: Hàng năm vào ngày mồng Ba tháng Hai có lệ khoán xướng ca, sắm cau trầu 100 miếng, rượu tinh khiết 1 chai chuẩn tiền 3 mạch. Đương trưởng thông báo trên dưới tề tựu không bắt buộc người có đại tang, tiểu cố, tất cố (vận hạn nhỏ). Ai vắng mặt, bị phạt 2 mạch tiền cổ. Tất cả hội hợp nghiêm túc không được ồn ào. Tri bạ chiểu theo số người trong thường ngạch nếu có ai vi phạm vượt quá trong điều ước thì bắt phạt không tha để giữ nghiêm lệ ước.
Điều thứ 10: Hàng năm vào ngày mồng Hai tháng Hai từ lễ Nhập tịch đến ngày 12 hết lễ, phải sắm lợn 1 con, xôi 1 mâm, cau trầu 60 miếng, rượu tinh khiết 1 chai, chân giò lợn 1 đôi. Mỗi lễ chuẩn giá tiền 3 quan. Tế xong lấy 1 khoanh cổ biếu thủ bạ, 1 miếng mũi má biếu tế viên, thủ lợn biếu hàng văn, 4 chân lợn biếu 4 tán viên, còn lại thịt và lòng gan thì bày làm cỗ để người có mặt thụ lộc.
Điều thứ 11: Mỗi ngày sắm lễ xôi gà, cau trầu 60 miếng, rượu tinh khiết 1 chai, chân giò 1 đôi, mỗi lễ tương đương 1 quan tiền. Lễ xong bày làm cỗ cùng thụ lộc.
Điều thứ 12: Mỗi ngày chấp sự hành lễ ăn mặc tề chỉnh, áo mũ nghiêm trang, nếu có ai khiếm khuyết bị phạt 1 con gà, chuẩn giá tiền 3 mạch. Duy người có đại tang, tiểu cố thì đến sau khi lễ xong để cho sự việc trang trọng.
Điều thứ 13: Lệ Xướng ca, phụng thờ trong lễ Nhập tịch, dùng 1 hoặc 3 trù là tùy thuộc lễ to hay nhỏ. Người không có chức trách thì ăn mặc tề chỉnh ngồi tại đình xem ca hát. Giáp bàn ngồi ở giữa, từ trùm bàn trở xuống chiếu thứ tự ngồi từ phải qua trái, phân biệt tôn ti cao thấp để giữ nghiêm. Lệ có nhất canh nhất điểm. Người vắng bị phạt tiền cổ 3 mạch, còn người có tiểu cố, đại tang thì ngồi chỗ riêng. Kiểm soát trong ngoài đình, nhưng không o ép trên dưới để cùng vui vẻ.
Điều thứ 14: Lệ Ca hát trong lễ Nhập tịch, biện cỗ bàn, định từ trùm bàn trở xuống thay nhau biện lễ cho đến kết thúc. Mỗi nhất trù 2 viên chỉnh biện 12 cỗ, mỗi cỗ chuẩn giá tiền 3 quan. Nếu ai đang kỳ chịu tang thì để mãn hạn mới được tham dự. Tiền sắm cố bàn do bản phố phân tán đều , dự tính trong 3 ngày hội họp tùy nghi chiếu bổ cấp tiền. Từ trùm bàn trở xuống số tiền giao cho người làm cỗ thu đủ số tiền làm cỗ.
Điều thứ 15: Lệ Trà tiền, bản phố đã có phân chia đều chiếu bổ từ giấp bàn trở xuỗng sai người di thu cho đ. Nều ai nạp thiếu sẽ bị định tội không tha.
Điều thứ 16: Lệ Cầu phúc hàng năm (Xuân vào ngày 12 tháng Hai, Hạ vào ngày 12 tháng Năm, Thu vào ngày 12 tháng Tám, Đông vào ngày 12 tháng Mười một, bản phố chiều cấp từ trùm bàn trở xuống đến nam nữ ngoài phố và người miền quan dịch, mỗi suất 2 mạch tiền cổ, Đương trưởng dự liệu 10 ngày trước thu đủ số. Nếu còn thiếu thì Đương trưởng trình phố ứng cho đủ, ai thiếu vắng thì bắt phạt 1 con gà giá tiền 3 mạch. Bản phố chiều cấp tiền để tùy ý mua sắm lễ phẩm, gồm lợn 1 con chuẩn giá tiền 5 quan, gạo nếp chuẩn tiền 6 mạch (khi lễ lớn thì không theo lệ này), cau trầu 100 miếng chuẩn giá tiền là 1 mạch 40 văn, do Đương trưởng thu; rượu tinh khiết 1 chai chuẩn giá tiền 18 văn.
Hôm đó Đương trưởng thông báo trên dưới tề chỉnh mũ áo, hành lễ, không bắt buộc người có sự cố nhỏ. Ai vắng mặt bị phạt tiền 1 mạch. Lễ xong, từ bàn thứ 3 trở xuống chia đều (nếu ai thiếu bị phạt 18 văn tiền, số tiền này do người làm cỗ giữ), số còn lại làm cỗ (mỗi cỗ chiếu thứ tự các bàn ngôi, nếu bàn nào bỏ hoặc thiếu khuyết bị định tội toàn bàn 6 mạch tiền cổ). Còn như thủ lợn, đuôi lợn thì để cho giáp bàn, chân lợn thì chía trùm bàn nội, xương chia đều làm 3 phần, 1 phần chia giáp bàn, 1 phần trùm bàn, 1 phần lềnh bàn. Trưởng bàn nội lấy lòng lợn, chiết ra nửa phần, còn 1 phần rưỡi bày làm cổ, 1 phần rưới chia đều dân nội thị (dân trong phố) trên dưới. Số thịt lợn còn lại chia đều cả nội ngoại thị (người trong ngoài phố), mỗi người 1 phần, vị trưởng bàn 5 phần, lại chọn lấy 12 phần cùng 12 phần lòng gan biều giáp bàn để tỏ ý tôn kính.
Điều thứ 17: Hàng năm vào tháng Tư, lễ Cầu phúc, mời thượng toát bàn hành lễ, dâng cỗ chay 1 mâm, rượu 1 chai, trầu cau 60 miếng, Đương trưởng nhận lễ biều tùy ý.
Điều thứ 18: Hàng năm 4 mùa 8 tiết, lễ dâng xôi gà, cau trầu 60 miếng, rượu tinh khiết 1 chai, chân lợn 1 đôi, mỗi lễ chuẩn giá tiền 1 quan (tiết Thanh minh tháng Ba, ngày 8 tháng Tư, Đương dương tháng Năm, Trung nguyên tháng Bảy, Trung thu tháng Tám, Trùng cửu tháng Chín, Trùng thập tháng Mười, mồng 2 tháng Mười hai), duy tiết Thường tân hoặc lễ ngày 9 tháng Tám chuẩn tiền 3 mạch.
Điều thứ 19: Hàng năm lễ Trừ tịch, mua áo quần đai mũ hàng mã 2 bộ, giá tiền chuẩn định 2 quan. Lễ Thổ địa 1 bộ áo mũ khăn đai, giá tiền 3 mạch, cau trầu 60 miếng, rượu tinh khiết 1 chai 18 văn. Lễ do
Cựu trưởng chỉnh biện theo như lệ.
Điều thứ 20: Bản phố họp định hễ có các tiết hành lễ thì trên dưới nhất nhất ăn mặc tề chỉnh hành lễ như nghi thức. Nếu ai không có áo dài bị phạt 1 mạch tiền cổ để giữ cho trang trọng.
Điều thứ 21: Lễ nghi các tiết bày trí cỗ bàn, Giáp bàn 2 cỗ, cau trầu 100 miếng để tỏ lòng thành kính.
Điều thứ 22: Người nào trong phố có con cháu đã thành gia thất, người buôn bán trong nghề phường nếu là nhiêu nam thì chiếu khoán cho nhập bạ tịch, cha truyền con nối vào phường nội, chịu sưu dịch, nếu không sẽ sống nơi khác. Người nào khinh mạn, làm trái đi sẽ bị bắt phạt và chịu tiền tổn phí. Phải làm nghiêm để giữ phong tục của phố.
Điều thứ 23: Trong phố người nào có con cháu đã thành gia thất, lệ phải chịu quan dịch, còn gia đình có người thành danh trong việc học tập thì tạm hoãn quan dịch, cho nạp tiền thay thế theo kỳ hạn.
Hàng năm vào tháng Tư nạp tiền 6 mạch, nếu học hành không thành, thì tái thu quan dịch theo lệ.
Điều thứ 24: Trong phố người nào có con cháu đã thành gia thất, lại theo nghề của phường thì tiền thuế, quan dịch một năm sau sẽ chiến bổ vào số ba bản phường vc ngối ở dước tử thần 10 mống chiều có tin 1 mạch 49 văn, được ngàng đướn htứ bảàm Người có đầ tuổ nhiều, cáng không h để côn nhu chơng thấ hoặ kam vớc, được nghi theo thú bệc của cha tiáp tiế n quan ré chấu r,com muới được đần xà xác nhận đã theo lệ nạp tiền 1 quan 2 mạch, cau thảu đúi lệ thì cùng được vào ngồi Người ngn biệt ngug được xác thực thì dùng việc buôn bán. Như vậy để phân biệt người khinh kể trọng.
Điều thứ 25: Người được tôn bầu làm trưởng lễ, sắm lễ gởm xôi gà cau trầu 60 miếng rượu 1 chai chân lợn 1 đôi chuẩn giá 1 quan tiên dâng đến Đương trưởng, trước 10 ngày có tờ trình xin viên thủ bạ chọn ngày tốt tôn bầu trưởng theo lệ.
Điều thứ 26: Lệ từ thứ sang làm trưởng, từ trùm cự bàn đệ tứ viên trở xuống kế tiếp luân phiên đến hết thì lại quay trở về đầu. Mỗi trưởng 3 tháng, không kể tháng nhuận, mỗi năm có 4 vị trưởng, khi mãn hạn được 30 ngày sắm lễ 1 thủ lợn, xôi, cau trầu 60 miếng, rượu và chân lợn 1 đôi chuẩn tiền 1 quan 2 mạch. Lễ tạ thì sắm 100 khẩu cau trầu. Đương trưởng nhận và thông báo cho bản phường hành lễ. Sổ bạ ghi chép, tính toán đầy đủ (lệ có điểm số hễ ai thiếu, trừ người có đại tang, tiểu cố, thì mỗi viên bị phạt 36 văn tiền). Chiếu bổ từ trên xuống dưới chi tiêu, đều vào sổ bạ, cấp tiền giấy mực trong 3 tháng là 3 mạch. Lại hứa cấp gạo ngon, rượu giá cổ tiền 3 mạch.
Điều thứ 27: Lệ có viên nào hạng thứ được lên hạng trưởng, sẽ được miễn mỗi trưởng thay tiền nạp là 6 quan tiền cổ.
Điều thứ 28: Lệ viên nào từ thứ thăng lên trùm cự bàn, lệ nạp tiền 3 mạch, còn thăng lên trùm nhị bàn thì nạp tiền 6 mạch.
Điều thứ 29: Viên nào từ hàng thứ luân phiên thăng lên thượng toát bàn, lệ nạp trâu, bò hoặc lợn giá tiền 18 quan. Bản phường tùy nghi mua lễ phẩm. Tiền giấy bút cho viên thư tả là 1 quan. Tày thời mà chỉnh biện tiền vọng 5 quan, cau trầu 100 miếng, nội thị lấy 6 miếng để đưa đến giáp bàn. Số khác chia đều trên dưới, mỗi vị 4 khẩu. Còn lại thì mời người có mặt thụ lộc. Vọng tiền chia làm 3 phần, nội thị 2 phần, giáp bàn chia đều làm 6 phần. Viên thăng thứ hạng được 1 nửa phần, số còn lại chia làm 5 phần, nội thị 1 phần, lại chia làm 3 phần, nội thị 2 phần, dâng trùm bàn 1 phần, chia đều từ lềnh bàn trở xuống các viên.
Điều thứ 30: Viên nào luân phiên thăng giáp bàn lên đệ nhất viên có lễ Cáo yết gồm xôi gà, cau trầu. Lễ phẩm kính biếu bản phố.
Điều thứ 31: Bản phố hợp định viên nào từ thứ hạng luân lưu thăng lên giáp bàn, cùng đệ nhất viên chưa mãn hạn Hương ẩm của phố mà luân lưu thăng lên đến đệ nhị thứ viên, thì nạp đơn xin bản phố chiếu xét theo Khoán lệ. Cho luân lưu thăng lên giáp bàn đệ nhất. Nếu viên nào không khao vọng thì chỉ dừng ở đệ nhị thứ, không được thăng nữa.
Điều thứ 32: Trong phố ta có viên nào đỗ tiền sĩ bên văn và tạo sĩ bên võ, trong ngày yết bảng, dân phố ăn mặc chỉnh tề đón rước. Lệ có lễ khao là 1 con bò giá tiền 10 quan. Các vị tân khoa yết kiến Thánh sư, lễ vật tùy nghi. Còn như việc quan dịch, khao thưởng từ thứ thủ phiên đến trưởng, thì bản phố châm chước miễn giảm. Duy những người từ thứ luân thăng lên giáp bàn, chiếu như Khoán lệ. Hễ đến ngày Kỳ phúc tháng Tư, hoặc có trâu, bò, lợn thì kính biếu 1 cái thủ để làm trọng thêm Nho phong, đẹp thêm phong tục trong phố.
Điều thứ 33: Trong phố có viên nào thi trúng tứ trường, sau ngày yết bảng, được mừng lễ vật là một con lợn giá 5 quan tiền. Viên đó ăn mặc chỉnh tề sắm lễ đến cáo tế Thánh sư, lễ tùy gia chủ, 1 lễ khác trình bản phố. Còn việc quan dịch, mua bán (danh vị), phụ trợ (tài chính) từ thủ phiên đến trưởng phiên sẽ châm chước chiếu giảm.
Duy viên nào từ hạng thứ lên trưởng sẽ được miễn dịch. Lệ định viên trưởng nạp 3 quan tiền. Hễ luân lưu thăng lên giáp bàn thì theo như chiếu khoán. Đến ngày lễ Cầu phúc mùa Xuân, mùa Thu, viên đó ăn mặc tề chỉnh, sắm lễ cau trầu dâng lên bản phường. Khi có lễ trâu bò thì được biếu 1 khoanh thịt, 1 oản xôi để làm trọng phong hóa.
Điều thứ 34. Danh môn nhất hàn i) phú tr tiàn dễu được miền, đuy Việc quan địch, mua bần (đanh thng lên thủ phánh) theo nhú nguy việtng phố, hế có sc uân hất phải sánh nhậ phiên, thi tho kị cyu ời phố tà, quan dịch nhất nhất phần phườngn. Còn nhu tìthc lin bưởng mã hiện đang theo học thì bản phường cho miền và đuợc: nạp tiển thể, mỗi trường 5 quan tiền cố, còn nếểu không đi học thì vớn đảm nhận theo như lệ để nêu gương người khác.
Điều thứ 35: Lệ trong phố có vị nào từ sơ thụ các chức sắc đến sinh viên trong xã trở lên, từ tam tiết đến khai hạ, đều có lời mời thì bản phố đến chúc mừng cau trầu 1 buổng giá 3 mạch tiền, từà bánh tùy theo lễ phẩm to nhỏ.
Điều thứ 36: Nguoi ngoa pho co vien nao thi tring tien si va te trường, tam trường, nếu có thịnh tình mời bản phổ đền chúc mừng 1 buồng cau. Duy người trúng tiến sĩ và trúng tứ trường thì sắm 1 lễ phẩm cáo yết Thánh sư (tùy lễ phẩm), 1 lễ dâng bản phố và việc quan dịch nhất nhất được châm chước miễn trừ.
Điều thứ 37: Lệ trong phố có vị nào được chúc thọ, nếu đến tuổi thọ 70 thì bản phố đến chúc mừng 1 tấm vải lụa, giá 3 quan tiền; người thượng thọ 80 thì bản phường đến chúc mừng 1 tấm vải lanh giá 5 quan tiền; người thượng thọ 90 và 100 tuổi được chúc mừng bộ quần áo lanh, mũ tiên, trượng trúc chuẩn giá tiền 10 quan. Hàng năm, vào 2 kỳ lễ Xuân Thu được biếu 1 oản xôi, 1 khoanh thịt. Nếu ai có tứ thân phụ mẫu và mệnh phụ và người ngoài phố thượng thọ mà có lời mời thì bản phố đến mừng cau 1 buồng, biếu xén theo lệ định. Các việc quan dịch nhất nhất được châm chước miễn trừ.
Điều thứ 38: Lệ Nạp tiền hương giai (tiền nộp cho phố khi đi lấy chồng) không phần biệt người trong, ngoài phố. Có ai xuất giá lấy chồng trong phố thì nạp tiền 6 mạch, cau trầu 100 khẩu giá tiền 1 mạch 40 văn. Còn ai lấy chồng người ngoài phố thì nộp 1 quan tiền 2 mạch, cau trầu dùng đủ lệ. Những người nào lấy chồng biệt xứ thì chỉa làm 3 loại: loại thứ nhất nạp 10 quan 8 mạch tiền, cau trầu 100 khẩu, loại thứ 2 nạp 7 quan 2 mạch tiền, cau trầu như lệ định, loại thứ 3 nạp 4 quan 8 mạch, cau trầu đủ dùng theo lệ.
Điều thứ 39: Trong phố có ai trăm tuổi về già, sau 3 ngày, Trưởng phố thông báo với dân trong phố đến điếu phúng. Viên hàng nhất của Giáp bàn phúng 6 quan tiền, cau trầu 1 khay (30 khẩu). Các viên Giáp bàn phúng tiền 5 quan, cau trầu 1 khay, Ất bàn phúng tiền 3 quan, cau trầu 1 khay, bàn Bính Đinh trở xuống chỉ phúng 3 quan tiền, chiều theo thứ hạng hành lễ, trên chắp, dưới vái. Ngày tống chung, Đương trưởng thông báo với bản phố trên dưới và người ngoài phố đến đưa tiễn. Đưa đến bờ sông gần thành vào lúc giữa ngày để đi đến mộ. Có lệ tam tiết, mỗi viên nạp 1 mạch tiền cổ. Nếu là song thân và mệnh phụ thì chỉ đến điếu và tiễn đưa. Người ngoài phố và ngoài song thân thì chỉ đưa tiễn. Duy viên đệ nhất bàn giáp khi trăm tuổi mà mai táng về ở quê cũ, thì chọn từ giáp bàn đên trưởng bàn, mỗi bàn 1 vị về quê đưa tiễn đến mộ. Nếu ai để khiếm khuyết sẽ bị bắt phạt 1 con lợn chuẩn tiền 3 quan, hoặc có ai thiên lệch để thiếu nghiêm túc cũng bắt phạt như trên. Duy những người chưa đủ kỳ hạn vào dân phố thì không theo lệ này. Làm như vậy để đẹp hơn Tục lệ.
Điều thứ 40: Khi phố thực hành quan dịch, người nào có vợ sinh con, hoặc con đau ốm thì trình cau trầu lên bản phường, nhưng báo trước 1 tháng.
Điều thứ 41: Bản phố thực thi công vụ gặp lúc khó khăn thì việc ăn uống không nhất thiết phải có mặt đông đủ trên dưới.
Điều thứ 42: Bản phố mỗi khi hội họp đều điểm số, ai vắng mặt bị phạt tiền 1 mạch, cau trầu trình tương đương 36 văn. Những người có việc khẩn cấp thì tùy nặng nhẹ mà không áp dụng điều lệ này.
Điều thứ 43: Lệ về thu tiền thuế đúc vàng để lấy tiền làm lễ hội vào tháng Tư. Hễ trong phố có ai nhận đúc vàng, mỗi lượng thu 36 văn tiền (thu từ 5 tiền trở lên). Vàng mỗi hốt (không kể tốt xấu) thu tiền 30 văn. Người ngoài ngụ cư ở phường thì thu 1 nửa. Nếu việc chỉ dàng còn thiểu thì thu thêm. Người nàp có ởng traan lận thi bất kắ ngườg ciần phụ nữ, chánh, thứ mà bị bản hần tiền ca ró thực trạng st bị phải icop lụm giá 1 quan 8 mạch tiền. Còn tiền công đúc vàng thì sẽ bị truy thu để giữ nghiêm Tục lệ.
Điều thứ 44: Hàng năm làm vàng cống phẩm, phải mua nguyên liệu nấu, không cứ nhiều ít mà chia làm 3 loại: Thượng toát và lão phụ miền dịch thu 1 phần, từ trùm bàn tr xuống thu 1 phần rưôi, còn nửa phần thì nam nữ ngoài phố cùng chịu.
Điều thứ 45: Người ngoài phố có ai buôn bán chịu quan dịch thì theo như dân trong phố. Duy người phụ nữ ngoài phổ thì cho nộp nửa phần.
Điều thứ 46: Khi dân phố hội họp thấy vị trưởng phố đến thì phải đứng dậy nghênh tiếp. Ai làm trái sẽ coi là thất lễ bị bắt phạt 1 con gà giá tiền 3 mạch, hoặc có ai trong khi uồng rượu ngoa ngôn thất lễ, kẻ dưới lăng mạ người trên, thì tùy nặng nhẹ mà bản phố định phạt không tha để giữ nghiêm phong tục.
Điều thứ 47: Bản phố thực thi quan dịch, bổ cho tam trực (3 cơ sở thường trực) thuộc các lò đúc vàng: Lò đúc vàng 1 lượng, bạc 5 hốt; lò đúc vàng 2 lượng, bạc 10 hốt và lò nấu than củi để thu tiền công tạm chi việc chung. Chi phí xong thông báo toàn phố để chiếu bổ thu giao cho đương trực hoàn trả. Người ngoài không dùng lệ này. Đương trực báo với Thị trưởng để thông báo với toàn phường thực hành công vụ. Ai để khiếm khuyết sẽ bị định tội.
Điều thứ 48: Bản phố tuân thủ duy trì lệ cũ, đã phân làm tam trực để ứng phó công vụ, luân lưu hễ đến đương trực nào nếu có mua bán, nhận đúc vàng thì trực đó nhận lo việc cho chu tất, nếu trực nào chậm trễ, khất lần để kéo dài càng làm phức tạp thêm thì bị phạt không tha. Trong phố ở trực nào có ai đến kỳ ứng hành theo thủ phiên cắt cử mà không làm hoặc để khiếm khuyết, lại có lòng tham tơ hào tài vật chung bị phát giác tất bị phạt. Còn những đương trực, thủ phiên không gắng sức đốc thúc công việc cũng bị phạt không tha. Lại bắt cả những người trốn tránh để làm răn.
Điều thứ 49: Trong phô khi có việc quan dịch thì đương trực, cán sự trình với Trưởng phố để thông báo với toàn dân trong phố có mặt đầy đủ, chờ tam phiên, Đương trưởng về bản phố theo sổ bạ điểm số. Ai vắng mặt sẽ bị phạt 3 mạch tiền, hoặc phải trình cau trầu nộp với giá 1 mạch tiền để thế vào. Còn ai đi xa không về kịp mà quả có việc cần thiết thì châm chước. Những ai khi trở về làng mà không theo lệ này, cùng gia đình bày mưu tính kế ngầm ý với viên trưởng đương trực để thoái thác, lấy tư làm công mà bị phát giác thì bị phạt 1 con lợn giá 1 quan 8 mạch tiền, còn viên trưởng đương trực cũng bị phạt như lệ trên để nghiêm Khoán ước.
Điều thứ 50: Bản phố hội họp bàn định khi có việc quan dịch phải nghiêm cẩn. Nếu có ý gian lạm dụng hoặc vì công vi tư không kể to nhỏ, có người nào tố cáo mà bản phố điều tra thấy quả tang thì tùy theo nặng nhẹ mà bắt phạt 1 con trâu giá tiền 5 quan; nếu nặng thì tước bỏ (ngôi thứ), như vậy để cảnh tỉnh tà tâm.
Điều thứ 51: Trong phố có ai đang ứng hành quan dịch mà sợ vất vả nghĩ cách trốn tránh đến nơi khác để bỏ khuyết quan dịch. Bản phố họp bàn chiếu theo danh vị người đó ở bàn nào, thứ nào không cho tuần tự thăng tiến. Nếu vượt kỳ thăng tiến một năm, mà người đó có cơi trầu trình bản phố, thì tùy theo sự châm chước mà truy thu tiền gốc và tiền phí tổn. Nếu nạp đủ thì viên ấy từ đó về sau tuần tự thăng tiến. Nếu quá hạn mà không nạp số tiền đó thì lệ tước bỏ (thành người ngoài phố) để răn đe người khác; còn số tiền đó thì cả phố cùng chịu.
Điều thứ 52: Nghề riêng của phố ta là của báu quốc gia, từ trước đã thành khuôn thước, phải giữ phép phụng sự việc công không thể xem nhẹ. Nếu có ai nhộn nhạo, xem thường phép tắc, bản phố tra xét mà đúng thì sẽ bị phạt một con trâu giá 5 quan tiền hoặc viên nào đi tra xét có ý thiên lệch cũng bị phạt như trên.
Đều thứ 53: Trong phố có ai iêu mất tiền guan, tiền công, bản phú họp định truy thu gia sản, uộng vườn củà không có , mang bắn đi để lấy tiền bởi hoàn. Nêu nhà đồ nghèo cá tiền tổn phở gi để thu th đên chu sia tộc nội ngoại số tiên đó và cả tiên tổn phí cho đủ số. Còn người đó sẽ bị tước danh vị za thành người ág nhấp hồ, người nào sinh ý ngang ngược không chịu thì bản phổ nhất nhất bắt phải chịu.
Điều thứ 51: Trong phố có ai ý vào quyền thể mà bỏ bể khiếm khuyết quan dịch nhiều lần, thì bản phổ họp định bắt phạt 1 con trâu chuẩn giá tiền 10 quan cùng tiền phí tổn bao nhiêu thì người đó phải chịu cả. Nếu người đó ngang ngạnh sinh ý làm khác đi thì cá phố trên dưới nhất thảy bắt phải chịu để cảnh tỉnh và giữ nghiêm tập tục.
Điều thứ 55: Trong phố có người nào gia thể khó khăn không kham nổi thì trình phố cau trầu để xin làm người ngoại thị, nếu được xem là thực tình thì thu tiền cho đủ theo lệ. Còn người đó về sau gia đình khá giả mà xin nạp quyên tiền (tiền góp của phố) thì lại được tái ngồi vào vị trí cũ. Bản phố chiếu theo thứ hạng cũ tại bàn nào, thứ hạng nào thì cho hạ xuống 3 bậc. Còn người nào trước ở dưới bàn thứ thì tái chiếu dưới bàn hạ 3 bậc. Làm như vậy để giữ nghiêm
Khoán lệ.
Điều thứ 56: Việc chơi cờ bạc ở đình, nhất thiết cấm hẳn. Nếu có ai lén chơi bị phát giác thì bắt cả bàn mỗi người 1 con lợn giá 3 quan tiền.
Điều thứ 57: Bản phố có đồ tế khí phụng thờ lưu giữ tại cung cấm trong đình, có ai manh tâm lấy trộm mà bị tố giác. Bản phố điều tra dung st thucthi truy thu s6 do vat do va bat phat 1 con trau gia tien 10 quan và treo thưởng cho người tố giác là 5 quan tiền, cùng tiền phí tệ đoan. tổn bao nhiêu truy thu người lấy trộm. Làm như vậy để chấn chỉnh
Điều thứ 58: Bản phố có đồ tế khí lưu giữ tại đình, nếu có ai bất cần làm vỡ, không cứ đồ vật lớn nhỏ đều hạn trong 1 tháng phải tìm mua để thế vào. Nếu quá hạn định mà không bồi hoàn được thì định tội không tha. Trở lên là các điều lệ mà bản phố trên dưới cùng những người kể thừa về sau nghiêm chỉnh thực thi không được làm trái. Trong các điều lệ đó có chỗ cần được thêm bớt thì bản phố hội họp trên dưới đủ mặt mới được sửa đổi và phụ chép vào. Nếu có ai không tuân theo điều lệ mà tự sửa chữa tùy tiện thì bản phố định tội phạt 1 con trâu giá 10 quan tiền để cho nghiêm Khoán lệ.
Nay lập điều lệ.
Ngày lành tháng trọng Thu năm Giáp Dần,
Niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2 (1794).
Thượng toát bàn Lê Đức Trương ký, cai hợp Trần Đình Cường ký, cai hợp Trần Vũ Quốc ký, sinh viên Vũ Nguyễn Trạc ký, cai hợp Hoàng Đình Duy ký, huyện thừa Vũ Đình Bân ký, trùm cự bàn Nho sinh Vũ Đình Luyện ký, cai hợp Nguyễn Đình Ngoạn ký, Phạm Đình Chu ký, Vũ Nguyễn Hoằng ký, Phạm Quang Biểu ký, Lê Đình Khiêm ký, sinh đồ Hoàng Gia Hiến ký, hương nhiêu Trần Vũ Cơ ký, Nguyễn Đình Tuấn ký, Vũ Nguyễn Nhương ký, sinh viên Trần Vũ Huy ký, hợp bàn nhiêu nam Vũ Đình Trưởng ký,
Hoàng Đình Yên ký, Nguyễn Đình Thư ký, cùng toàn phố trên dưới ký.
Ngày lành tháng mạnh Đông năm Ất Dậu
Niên hiệu Minh Mệnh thứ 6 (1825).
Thượng toát bàn Vũ Đình Kỳ ký, Nguyễn Đình Ôn ký, Phạm Đăng Hội ký, Lê Đình Bảo ký, Phạm Đình Minh ký, trùm cự bàn Trần Đình Hàm ký,Vũ Đình Tôn ký, Phạm Đăng Khánh ký, Đỗ Tất Tế ký, trùm nhị bàn Phạm Đình Chung ký, Trần Đức Súng ký, Phạm Đình Mỹ ký, Đỗ Huy Dung ký, Phạm Đình Đồng ký.
Lệnh cự bàn Nguyễn Duy Hinh ký, Phạm Đình Phấn ký, Trần Đình Thắng ký, Trần Đình Thuật ký, Phạm Đình Kiêm ký, Phạm Đình Trị ký, Vũ Hữu Dực ký.
Trưởng nhị bàn Vũ Đình Phụng ký, Đỗ Huy Dụ Ký, Phạm Đăng Thư ký, Đỗ Đức Hoằng ký, Nguyễn Đình Thuân ký, Trần Đinh Truy ký,
Thứ bàn ba Trần Đình Huy ký, Vũ Đình Lộc ký, PHạm Đình Văn ký, Trần Đức Thận ký, Vũ Đình Chi ký.
Thứ bàn tứ Vũ Đình Hiên ký, Nguyễn Đình Trục ký, Đỗ Tông Trinh ký, Trần Đình Khanh ký, Phạm Duy Tuyền ký, Nguyễn Đình Ân ký.
Thứ bàn năm Phạm Đình Phái ký, Vũ Đình Trạch ký, Đỗ Huy Chử ký, Phạm Đăng Hựu ký, Trần Đinh Nhị ký, cùng toàn phố trên dưới ký.
(Bài tế văn Nhập tịch, Xuất tịch do viên quan là cựu tiến sĩ Thị lang trung Đại học sĩ người Hoa Đường soạn).
“Duy hoàng hiệu mỗ niên trùm lệnh trưởng đồng thị thượng hạ đẳng vi kỳ phúc sự cẩn dĩ mỗ vật cảm chiêu cáo vu…”.
Ngày 27 tháng Tám năm Minh Mệnh thứ 8 (1827), toàn phố trên dưới hội họp bổ sung điều lệ một điều là phàm các tiết lễ khi giết trâu bò, thì bộ lòng gan chia đều 2 phần, trong đó 1 phần bày làm cỗ, 1 phần chia cho dân phố trên dưới; còn lại như thịt thủ và đuôi thì mỗi phần 1 khoanh, cùng thịt 2 khoanh biểu thượng toát bàn. Lấy thịt cổ 1 khoanh, cùng thịt 2 phần, chỗ gần vai thì biếu trùm cự bàn, chỗ gần thủ thì biếu trùm nhị bàn, số còn lại và chỗ thịt mỡ để lại làm cỗ. Thịt còn lại chia toàn dân trong ngoài phố theo như lệ chia thịt lợn trong lễ Kỳ phúc. Còn lại 4 chân thì để lại 3 chiếc, còn 1 chiếc cho chân giữ sổ bạ.
Nay họp định.
Ngày 20 tháng Mười một năm Minh Mệnh thứ 13 (1832), toàn phố trên dưới hội họp tu bổ điều lệ phàm là 4 mùa 8 tiết trong năm thêm thit lợn cho đủ 2 lễ, Xôi 2 mâm, cau trau 20 khẩu, rượu 1 chai chuẩn giá tiền là 3 mạch.
Nay họp định.
Ngày 16 tháng Hai năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), toàn phố trên dưối hội hợp bàn về lễ xướng ca luân phiên làm cố. Theo ngày trước tuy có định lệ, nhưng lễ sắm nhiều thành ra thái quá, nay bản phố họp định mỗi cỗ chuẩn giá tiền là 1 quan 5 mạch. Còn các cỗ bát kê ra sau đây để về sau chiếu theo mà sắm không được tăng giảm.
Nay lập điều lệ mới. Kê:
Chim 1 bát, gà 1 bát, ngan 1 bát, chân lợn 1 bát, thịt nướng 1 bát, thịt nạc 1 bát, cua 1 bát, lươn 1 bát, cá bào ngư 1 bát, cá trắm 1 bát, giả dê 1 bát, giả ba ba 1 bát, giả cầy 1 bát, cơm nén 1 đĩa, nước mắm 1 bát, trà 1 bát, xôi vừng 2 đĩa, giò lụa 1 đĩa, giò vân 1 đĩa, giò hoa 1 đĩa, chả hoa 1 đĩa, chả phồng 1 đĩa, chả quế 1 đĩa, chả rau 1 đĩa, chả dồi 1 đĩa, bánh lá 1 đĩa màu vàng, bánh út 1 đĩa màu vàng, bánh bột lọc 1 đĩa màu trắng, giò thái lẻ 1 đĩa, mất (mứt) bí 1 đĩa, mất cam 1 đĩa, mất hạt sen 1 đĩa.
Ngày 4 tháng Tám năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), bản phố hội họp bổ sung 1 điều là hễ viên nào đến kỳ luân chuyển lên giáp bàn, vào tiết xướng ca biện cỗ bàn giá 6 quan tiền. Lại thêm 1 điều nữa là hàng năm vào lễ Nhập tịch, biện xôi, trầu, rượu lễ tại đình trung phải tinh khiết, không được làm trái. Bản phố họp định lệ từ thứ bàn đến trưởng bàn, mỗi ngày 1 viên biện lễ, hết lượt lại quay trở lại. Có ai đến lượt mà làm trái sẽ bị phạt tiền như lệ định. Làm như vậy để giữ việc phụng sự Thần cho nghiêm cẩn.
Nay định lệ.
Giải pháp công nghệ giúp làm gia phả vừa tiết kiệm thời gian vừa tiết kiệm chi phí
Trước đây, việc làm gia phả thủ công tốn nhiều thời gian, chi phí, một thời gian sau phải thuê thiết kế lại khi có cập nhật thành viên, không chủ động trong quản lý.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ phát triển thì việc quản lý nhiều thành viên, nhiều đời trong họ lại vô cùng đơn giản và tiết kiệm chi phí khi có các loại phần mềm gia phả chuyên dụng hỗ trợ như:
+ Phần mềm Gia Phả Số Đại Việt
Thông tin liên hệ
Địa chỉ: Phòng 1210, tòa nhà Trinity Tower Số 145, Đường Hồ Mễ Trì, Phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, TP Hà Nội
Website : https://giaphaso.com
Hotline/Zalo: 0979.33.88.11
Email: hotro@giaphadaiviet.com
Facebook: Gia Phả Đại Việt
#Tục hay, lệ lạ – Thăng Long Hà Nội