Khoán lệ phường Hà Khẩu Nay thuộc phường Hàng Chiếu, quận Hoàn Kiếm – Hà Nội

Lễ là thích nghi, vì tình người mà giản lược lời văn, điều cốt yếu là phải hợp thời, để cho người đời sau có thể thừa kế lâu đài được.

Phường tạ nằm ven phố, không như các thôn làng khác cùng chung giếng chung khe. Phàm có việc gì đều dựa vào lễ tục mà giải quyết, để lâu sẽ không xong, phàm việc gì cứ theo ý mà làm sẽ giản đơn đáng bị coi thường.

Nay nhân lệ cũ mà suy xét cho hợp thời để cho đời sau vĩnh viễn noi theo, mong rằng ven phố cũng có người làm quan, cũng có điển lễ há chẳng phải là một nơi có phong tục tốt đẹp hay sao?

Lễ - Khoán lệ phường Hà Khẩu
Hàng chiếu


Việc thờ phụng hàng năm gồm có các tuần tiết phụng thờ thần linh:

  • Lễ Đốt đèn Thượng nguyên: Ngày 15 tháng Giêng.
  • Đại lễ Xuân các bậc Hiển Thánh: Ngày 30 tháng Giêng.
  • Sinh nhật Quan Thái Tử: Ngày 30 tháng Năm.
  • Đại lễ Tế thu sinh nhật Quán Thánh: Ngày 24 tháng Sáu.
  • Lễ Đốt đèn Trung Nguyên: Ngày 15 tháng Bảy.
  • Lễ Thường tân: Ngày 18 tháng Tám.
  • Lễ hậu của Bỉnh Trung công: Ngày 28 tháng Chín.
  • Lễ Quan Thánh quy thần: Ngày 7 tháng Mười hai.
  • Giỗ hậu: Ngày 3 tháng Sáu, ngày 7 tháng Bảy, ngày 7 tháng Mười.

Các tiết hàng năm các giáp luân lưu cúng lễ không thay đổi: Tiết Nguyên đán giáp Mật Thái, ngày mồng 2 giáp Bắc Thượng, ngày mồng 3 giáp Bắc Hạ, ngày mồng 7 giáp Nam Thượng, Lễ Đoan ngọ giáp Nam Trung, Lễ Trung thu giáp Đông Thái, lễ Mộc dục ngày 25 tháng Mười hai giáp Hương Tượng, lễ Trừ tịch giáp Phúc Lộc.

Nhà nước có pháp luật, làng xóm có điều lệ, lẽ ấy là một. Các bậc tiền bối phường ta xây dựng Điển lệ, lập văn bia ghi lại đầy đủ.Khoảng giữa chừng cả phường cùng nhau bổ sung, đính chính đã đủ trở thành Điển lệ nhưng người giữ đã để thất lạc.

Nay khắp nơi mặt trời sáng tỏ, vận hội đổi mới, tình hình có điều đặc biệt, giá cả đổi thay, nếu không vì tình thế mà giản lược lời văn cho hợp thời, để khi vội vàng suy xét thì Điển lệ chắc có điều chưa trọn vẹn.

Nay bản phường bàn định để trình bày rõ với tiên chỉ họ Bùi, cân nhắc lệ cũ, cốt là hợp thời để cho nền nếp phong tục hòa hợp, điển lễ sao cho mạnh, lễ nhạc, y quan còn mãi, danh tiếng văn vật luôn được giữ gìn, không để mất đi điều này, há chẳng phải tốt đẹp lắm sao?

Lệ này viết xong, cả phường đều ký tên để thành lệ mãi mãi.

Lễ - Phường Hà Khẩu - Hàng Chiếu

Ngày lành tháng Giêng năm Tự Đức, giáp Phúc Lộc hội họp ghi chép lại các lễ vật các tiết, lệ định bổ tiền hàng năm và bản phường luân phiên sắm lễ dâng lên đình, viên đương cai nhận, chiểu theo các quy định trong sách mà thi hành, không được thay đổi để thể hiện sự kính trọng.

Liệt kê như sau:

Tiết tháng Giêng (các ngày mồng Một, mồng Hai, mồng Ba, mồng Năm, mồng Bảy) luân phiên mấy phiên mấy viên trong giáp, mỗi viên sắm lễ một ngày (trong lễ đó ban chính có gà xôi, hai ban bên phải và bên trái hoặc chân giò hoặc thịt tươi 1 cân, vàng mã hoa quả đầy đủ). Hàng năm, 5 ngày 5 viên hết lượt lại quay vòng từ đầu (đến lượt nên sắm bày nến 3 đôi, pháo 1 phong).

Ngày 20 tháng Hai, tế Xuân, trước 1 ngày vào giờ Thân làm l tác yết (ban chính trầu cau tượu thịt, các ban tả hữu xôi chuối trầu
Tượu hương đèn đầy đủ), Đến ngày chính giờ Mão dùng lợn nguyên con, xôi 0 mâm, hai ban dùng móng giò, xô trầu rượu, vàng mã, hương đèn đầy đủ, quy định tiền 3 quan.

Ngày mồng Năm tháng Năm, ban chính bày lễ gà 1 con, hai ban phải trái bày xôi chuối trầu rượu, hoa quả hương nền, quy định bổ tiền 1 quan 5 mạch.

Ngày 12 tháng Tám, tế Thu, chiểu theo tế Xuân mà làm, quy định tiền cũng bằng như vậy.

Ngày 15 (tiết Trung thu), bạn chính dùng xôi trầu cau rượu, hai ban phải trái dùng xôi chuối, trầu xanh, 3 con chim ngói đầu mùa, hoa quả, trầu cau, rượu, hương nến đầy đủ, quy định bổ tiền 1 quan 5 mạch.

Ngày 25 tháng Mười hai, lễ Mộc dục, 2 vuông khăn đỏ (bút 2 cây, mực) vàng mã, hương nến, trầu cau, rượu, câu đối đầy đủ, quy định đương trưởng phải lo liệu.

Ngày 30 làm lễ Mộc dục tại đình của bản phường, lễ này sắm
1 con gà, xôi trầu, rượu, khăn vuông đỏ 4 chiếc (trầu cau dâng trước). Đương cai thu về nhà thụ lộc (cho phép bản phường tiền từ 1 quan).

Ngày hôm đó bản giáp làm lễ Trừ tịch tại miếu, ban chính bày xôi chuối, hai ban phải trái có trầu rượu làm lễ tổng cựu nghênh tân. Lễ ngoài trời có xôi thịt, trầu rượu, hương nến, pháo 2 ngàn, quy định lệ tiền 1 quan 5 mạch, giao cho Thủ từ tiền 1 quan mua 1 cần rưỡi dầu và lo nước uống (3 ngày).

Tại đình của bản phường đến lượt mỗi giáp lo 1 tháng (nếu có tháng gặp lễ lớn) ngày mồng 1 dùng 3 con gà (chia đều cho mọi người cùng thụ lộc, lễ này thì bản giáp thu). Đến ngày 15 dùng cỗ chay, xôi và trầu rượu đầy đủ, hai lễ này chi 3 quan tiền).

Ngày thượng tuần tháng Mười một năm Đinh Mùi, Tri huyện huyện Bình Lục Bùi Khánh Diễn, Thông lại huyện Mỹ Đức Bùi Tân,
Cửu phẩm Văn giai Bùi Xuân Đán, Bùi Huy Tuấn. Khoán lệ gồm các điều:

Lễ - Ô Quan Trưởng
Ô Quan Trưởng

Điều 1: Hàng năm hai kỳ lễ Xuân, Thu, tổ chức vào tháng Hai và tháng Tám, hạn trong 10 ngày đầu tháng phải họp tại nhà đương cai mới chiếu bổ tiền lễ, đến ngày 14 làm lễ Nhập tịch vào giờ Thân, kính cẩn dùng xôi rượu, mỗi thứ 3 cân, cau rượu tiền vàng các loại. Ngày 15 kính dâng lễ vật cũng như vậy. Tới ngày 17 tiến hành đại lễ. Việc mua sắm tại bàn ba, biên bạ bàn bốn, chia ra thu tiền lễ bàn năm trở xuống. Lễ xong, người đứng đầu chia cỗ theo quy định ở đây, nhập trạch 1 đĩa xôi, mỗi mâm 1 phần thịt trâu bò, hai mâm 2 phần, làm vậy để thể hiện thứ bậc rõ ràng. Nếu có chỗ sai thiếu chiểu bàn năm trách phạt bồi thường 10 miếng trầu cau, 1 vò rượu để tạ lỗi.

Nay đặt lệ.

Điều 2: Hàng năm người nào đến lượt luân lưu làm trưởng cai từ bàn ba trở lên, mỗi kỳ 1 người, hết lượt thì quay lại từ đầu. Phàm đến lượt người trưởng cai phải mua trầu cau làm lễ 20 miếng, lễ lớn 30 miếng, chỉ cho phép chi tiền 30 văn, trưởng cai nhận lấy không được làm cỗ khác đi.

Nay đặt lệ.

Điều 3: Mỗi tháng các ngày sóc vọng, bản giáp làm lễ thì dùng đồ chay, luân lưu thứ tự từ 15 tuổi trở lên, hết lượt thì quay lại từ đầu. Lễ xong, những đồ chay đó chia cho những người làm lễ, duy chỉ có trầu cau kính biếu bàn một mà thôi. Từ bàn hai trở xuống, lần này việc vái lạy cũng theo lệ có phân biệt. Còn như tứ thời bát tiết đều dùng xôi rượu một lượt hoặc theo nghi lễ chiếu theo lễ vật cũng được.

Nay đặt lệ.

Điều 4: Hàng năm Xuân, Thu hai kỳ làm lễ, khi làm lễ hoặc mua trâu lợn, thủ của nó kính biếu bàn các bô lão, phần cảnh biếu bàn

một, chân biểu bàn hai bàn ba, còn phần nạm nếu có ai tham gia tá lột, c ha làm bón phần, thịt một phần biu chủ tế, còn ba phần
Tễ đêu chng người làm lễ, nếu là lễ cáo yết thì chia đều cho trên đướ.
Nay đặt lệ.
Điều 5: Hàng năm tế văn thờ thần là quan trọng nhất. Phàm người viết văn quan hệ đến chức tước, lễẽ xong biều một miếng thịt vai để tỏ lòng kính trọng.
Nay đặt lệ.
Điều 6: Phàm việc làm lễ cứ chiểu từ bàn bôn trở lên, áo mũ tể chỉnh làm lễ theo nghi thức để tỏ ý tôn kính, còn như bàn năm trở xuống, nếu có tiền vọng thì nghiêm chỉnh áo mũ đi theo để tỏ ý tôn kính. Nếu người nào hành lễ không đúng nghi thức phải sắm trầu rượu tạ lỗi.
Nay đặt lệ.
Điều 7: Hàng năm Xuân, Thu hai kỳ, quý ở chỗ trên dưới hòa thuận. Phàm trong giáp nếu có người do bận việc lớn hay việc tang không thể tham dự được thì vị trí chỗ ngồi cúng tế có thể tiến hành ở chỗ khác, làm nghi thức để phong tục được tốt đẹp. Nếu người nào không giữ nghiêm phép ứng xử sẽ không tha thứ.
Nay đặt lệ.
Điều 8: Căn cứ hàng năm, lễ kỳ phúc vào hai kỳ Xuân, Thu, nếu có ca hát thờ cúng, theo lệ có thưởng. Lệ mỗi chầu 10 quan, còn như tiền dầu đèn là do trưởng cai cho thêm mỗi đêm 1 quan, còn như cầm chầu thì từ bàn ba trở lên, không được cố chấp tranh nhau.
Thảng hoặc có người uống rượu quá đà mà thất lễ, bản giáp bắt giữ phạt tiền 6 mạch, trầu rượu dâng tạ không tha.
Nay đặt lệ.
Điều 9: Căn cứ hàng năm, lễ sự thần hai kỳ Xuân, Thu có ca hát.
Thảng hoặc người nào do bận việc ở bên ngoài phải canh phòng gian phi để việc thờ Thần được long trọng, thì trong tộc miễn cho không phải nộp tiền lễ. Những người có việc mới được ngồi cùng Nếu coi thường không tuân thủ sẽ bị bắt trói để giữ nghiêm lệ này.

Nay đặt lệ.

Điều 10: Việc hàng năm luân lưu làm trưởng cai đã có định lệ, từ lão bàn trở lên đến thứ bậc khác, không được sợ việc nặng xin việc nhẹ. Nếu ai dùng lời mà thoái thác xin được miễn lần mình, đến khi xác minh là đúng sự thật, kẻ bất kính đó sẽ bị bản giáp gạch bỏ tên để giữ nghiêm việc này.

Nay đặt lệ.

Điều 11: Những người trong bản giáp từ 50 tuổi trở lên thăng lên bàn lão. Tiền vọng của họ là 5 quan, lễ vật tùy tâm. Về sau việc đóng góp các khoản tiền nong lễ vật.. thì các quan dịch được miễn trừ cho đến hết đời để làm tốt đẹp phong tục. Phàm có con trai, cháu trai hoặc con rể, con nuôi muốn nhập vào bản giáp, theo lệ số tiền nộp tùy vào số tiền cấp cho lễ kỳ phúc mà tính, ngoài ra còn 30 miếng trầu, 1 vò rượu. Còn như người ngoài muốn xin nhập vào, căn cứ trong giáp có người nào làm đơn xin hộ mới được cho phép. Còn như vị trí chỗ ngồi không tính trước sau cao thấp, lấy thứ bậc trong nghề làm đầu. Còn như những người ngang vai hơn kém nhau hai ba tuổi, trong số đó chọn ra vài người giao việc, quy định về năm, tuy giới hạn không phải đội ơn ba đời thì không được ngồi lên bàn lão, lại có một hạng người ngoài dù chưa được ba đời nhưng có công cao đức trọng đối với bản giáp cũng đồng ý cho phép ngồi lên bàn lão để làm vẻ vang công trạng và phân biệt cao thấp. Các khoản lễ vọng của người đó đều như ở trên.

Nay đặt lệ.

Điều 12: Lệ định đến lượt lên bàn trên ngồi, nếu từ bàn hai lên bàn một thì bản giáp thông báo cho người đó. Tiền vọng là 6 mạch, rượu 1 vò, trầu cau 30 miếng. Còn để lên bàn, xuống bàn thì trầu rượu cũng như vậy, chỉ có tiền vọng 3 mạch. Nếu người nào đến lượt lên bàn trên mà từ chối thoái thác không chịu thì bắt không tha.

Nay đặt lệ.

Điều 13: Hai kỳ Xuân, Thu mỗi kỳ một người dầng 1 mâm xôi, từ tiềc hố lưới, hết vòng quay lại từ đầu. Đên ngày lễ chính bậy biện chỉnh tê xôi 1 mâm, quy định chuẩn là trung bình khoảng 25 cân làm mức hạn, phải làm cho sạch sẽ. Nêu còn thừa thì trả lại, nếu thiếu thì bù vào, mỗi cân đền bằng tiền là 2 mạch 30 văn, làm lệ vĩnh viễn.

Nay đặt lệ.

Điều 14: Hàng năm việc thờ Thần vào hai kỳ Xuân, Thu là quan trọng nhất, từ lế Nhập tịch cho đến đại lễ, từ trên xuống dưới cứ đến giờ Dậu thì xếp hàng tại đình để túc trực. Nếu người nào bận việc đi xa thì phải báo vắng. Nếu là người từ bàn bốn trở xuống thì do trưởng cai xếp chỗ ngồi. Đồ thờ từ khi an vị đến đại lễ phải được bày biện đúng nghi thức. Lễ xong lại xếp đặt như cũ. Những ai bận việc đi xa mà vắng mặt thì phải nộp 10 miếng trầu để giữ nghiêm quy định. Nếu người nào thường xuyên bỏ vắng thì bắt không tha.

Nay đặt lệ.

Điều 15: Người trong bản giáp nếu có con gái gả chồng cho người trong giáp thì lệ nộp tiền lan giai là 6 mạch, rượu 1 vò, trầu cau 30 miếng, lễ vật tùy tâm. Còn nếu lấy người ngoài thì tiền lan giai là 1 quan 2 mạch, trầu rượu như vậy. Còn như tiền nộp ngôi thứ thì nộp cho hương và bản giáp các hộ, trong đó chia hạng có thứ bậc.

Nay đặt lệ.

Điều 16: Việc thờ thần hai kỳ Xuân, Thu cho đến lễ cáo yết quy định chi tiền rượu 1 mạch, ngày chính lễ rượu 2 mạch làm hạn mức, không được vượt quá quy định. Nếu cậy mình là hào trưởng trong đó tăng chi, sẽ bắt phạt tiền 6 mạch không tha.

Nay đặt lệ.

Dieu 17:Người nào có tứ thân phụ mẫu qua đo, ban giap biet tin lập tức đến viếng. Quay về gặp trưởng cai tại nhà, cắt cử người từ

trên chí dưới, mỗi đêm trực canh 1 mâm, từ lúc truy điệu cho đến ngày tổng chung làm hạn định. Nếu hiếu chủ có lời mời uống rượu thì cấp cho họ tiền tuất, cha mẹ đẻ là 3 quan, các vị tứ ân là 1 quan 8 mạch, còn thêm 10 miếng trầu, mang áo xô đứng tại tế đường hành lễ đúng nghi thức. Nếu hiếu chủ đưa thiếp và trầu cau nhờ khiêng quan tài hạ huyệt thì bản giáp tùy theo mà cắt cử người khiêng lấy quan tài nặng nhẹ làm hạn. Chỉ trừ người đó có vợ con mang thai thì thôi, còn lại hiếu chủ phải đáp tạ 50 miếng trầu. Phàm lúc tống chung đều dùng áo vải trắng để tống tiễn. Nếu ở gần thì đến trước mộ, nếu ở xa thì tính đi hết một ngày đường làm hạn, trưởng cai ứng tiền ra 1 quan cho ngày hôm đó. Bản giáp coi như tiêu vào việc chung. Nếu người nào bận việc đi xa xin phép vắng mặt thì phải nộp 10 miếng trầu, tiền 20 văn.
Nay đặt lệ.
Điều 18: Hai lễ lớn Xuân, Thu chiếu bổ mỗi giáp tiền 1 đồng 1 hào, bắt đầu từ giáp Mật Thái đến giáp Phúc Lộc, nếu sau này việc mua sắm lễ vật giá cả không giống nhau thì tùy tình hình mà nộp thêm, nhưng phải đợi quay vòng các giáp một lượt mới được tính lại.
Điều 19: Mỗi khi đến kỳ lễ lớn, trước đó 3 ngày các giáp hội họp tại đình hoặc cho mời gánh hát tới, việc bổ tiền theo đầu người trước tiên bàn bạc xong sẽ do trưởng phố hoặc điển bạ đi thông báo. Đến ngày cáo yết và ngày tế chính, chức sắc khoa mục các giáp như phố trưởng giáp trưởng, phàm những người xếp vào hạng Hương ẩm áo mũ tề chỉnh làm lễ. Ngày đó trong đình ai nấy đứng đúng vị trí, không được làm ầm ĩ để cho người xem thấy được sự nghiêm túc.
Chỉ người nào quả thực nhà có việc bận hoặc làm quan ở xa hoặc có đại tang, mới được báo vắng mặt. Giờ tế thì buổi sáng đánh 8 tiếng chuông, buổi tối đánh 2 tiếng. Người nào vi phạm đợi sau khi lễ xong không được dự tiệc.
Điều 20: Các viên chính tế phải là tiên chỉ mới được dự, nếu viên đó quả thực có việc xin thôi, thì tới lúc làm lễ mới được chọn người thay thế.

Đầu 21. Tin h th ưg biểu phên h c n g t t ó, h c ty và tHường tâô dược phần cố, chia đềng xhướng đhn ph và điếm b, phẩt chân. Người dọc chúc từử và tế một ưứa làm c biếu a quả cau phản chiếng cau khô, Thịt con vật tềy giố hậu và cá, một nửa chủu đậố ch những người dị tế. Đến ngày giò hậu và các lề tết, phần đầu con vật tế chia đều cho các giáp.
Điều 22: Tiên chỉ thì lấy khoa mục làm trọng, nêu không có khoa mục thì do người có phẩm hàm cao năm giữ. Những người sinh sống nhiều đời tại bản phường mới dược giữ vị trí này, sau đó mới đến khoa hoạn, sau nữa mới đến phẩm hàm, cuối cùng là các
Hương lão.
Điều 23: Viên tử viên tôn của các giáp nộp tiền vọng 5 hào được phép ghi tên vào sổ sách của phường như quê vợ, quê mẹ. Người nộp tiền vọng 1 đồng thì tăng gấp đôi. Tuy vậy giáp trưởng các giáp nên xem xét người đó như thề nào mới cho phép.
Điều 24: Giáp trưởng các giáp nộp tiền vọng 5 hào thì được đọc tên trong tế văn, người nào đã nộp trước rồi thì thôi. Trong giáp các viên Hương ẩm, người nào làm thay chức giáp trưởng giáp đó thì cũng được phép.
Điều 25: Đặt ra một viên thủ bạ để chuyển giao công văn giấy tờ và giữ sổ sách của phường.
Điều 26: Nhà chung của phường có hai ngôi nhà cho thuê, tiền thuê cao thấp tùy theo thời giá, mỗi năm giao cho 1 giáp. Viên giáp trưởng họp với trưởng phố, điển bạ lo việc cho thuê nhà và thu tiền.
Đến cuối năm dựa theo sổ sách tính toán phân minh. Nếu trưởng phố không phải là người trong phường thì không cần cùng bàn. Nếu không tha.
người nào bớt xén mà người khác phát hiện ra thì sẽ bị trách phạt
Điều 27: Hương lão đến 55 tuổi làm cổ khao, tiền vọng là 4 đồng.
Ký lão 60 tuổi làm cổ khao, tiền vọng 6 đồng. Còn người 70, 80 tuổi làm cố khao, tiển vọng 10 đồng. Bản phường nhận tiền vọng, mùng

cho Hương lão một đôi câu đối, Kỳ lão một bài thơ, Thượng lão một bức trướng thêu có chữ.
Điều 28: Những người theo đuổi khoa cử từ tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài, khi được báo tin mừng, thì trong ngày hôm đó các vị
Hương ẩm lập tức ra bền tàu hỏa hoặc nhà ga xe lửa tiếp đón. Đến hôm nào các vị khoa cử tự nguyện nộp tiền vọng và cung kính làm cố khao, thì bản phường nhận tiền vọng thuê người (phu dịch hoặc là người Nam hay người Thanh càng tốt) mang cờ lọng chuông trống ra nghênh tiếp long trọng, lễ mừng tùy biện.
Điều 29: Các quan văn từ tứ phẩm trở lên đội ơn được phong tặng cho cha mẹ, hôm nào nộp tiền vọng và làm cỗ khao thì bản phường làm lễ nghênh đón cáo sắc như với tiến sĩ nhưng tăng gấp đôi để thể hiện sự tôn trọng.
Điều 30: Các tiến sĩ và ấn quan được phong tặng, tiền vọng và lễ mừng cũng giống như với Thượng lão. Chức tản giai từ ngũ phẩm trở lên cũng theo lệ này. Đối với phó bảng, cử nhân, tiền vọng và lễ mừng cũng giống như với Kỳ lão. Chức tản giai từ thất phẩm trở lên cũng theo lệ này. Còn đối với tú tài, tiền vọng và lễ mừng cũng giống như với Hương lão. Duy chỉ có tú tài thì có lễ nghênh đón ở tỉnh.
Chức tản giai từ cửu phẩm trở lên chiếu theo lệ này, đối với thông sự, ký lục và ấm sinh tiền vọng 1 đồng, được ghi trong tế văn, đợi ngày nào nhận được phẩm hàm sắc văn, nộp tiền vọng và làm cỗ khao mới được tôn kính theo như lệ này.
Điều 31: Trong phường người nào có chuyện vui mừng, đến mời bản phường tới trợ tế hoặc dự tiệc mừng thì đều nên đến để thể hiện
tinh cam than thiet nong hau.
Điều 32: Phàm những người mới dự hàng Hương ẩm không may có tin dữ, nghe được chuyện buồn lập tức phải đến thăm viếng, tùy biện câu đối mang đến. Đến ngày đưa tang tiễn ra tận mộ. Sau này tang chủ dù có hay không làm cổ khao, mời báo thế nào đều tùy họ.
Trong đó nếu có gia đình nào giàu có muốn làm lễ tang long trọng,

dưa tiền cho bản phường cử người biết việc thuẻ, mưốn, phu địch, thì bản phường sẽ theo như tấm lòng hiều thảo của người con, thuẻ phu chít khăn trắng đi theo giúp việc, ngoài các nhân viên của bắn phường, còn theo tục lễ của xóm.
Điều 33: Hai đại lễ Xuân, Thu cho phép chi tiền như ở trên.
Điều 34: Ngày lễ Thượng nguyên (Rằm tháng Giêng), lễ Trung nguyên (Rằm tháng Bảy), lễ dùng quả phẩm (cau hoa, hương nến), cho phép chi tiền 1 đồng.
Điều 35: Các ngày 30 tháng Năm, ngày 28 tháng Chín, mồng 7 tháng Mười hai dùng các lễ cho phép chỉ tiền 3 đồng (ễ đó dùng gà 3 con, chia hai ban tả hữu, dùng thịt lợn 2 cần, cau 15 quả, xôi 5 đĩa, hương nến hoa rượu đầy đủ).
Điều 36: Các ngày mồng 3 tháng Sáu, mồng 7 tháng Bảy, mồng7 tháng Mười, lễ Thường tân tháng Tám, bốn lễ này dùng các lễ cho phép chi tiền 4 đồng. Lễ Thường tân dùng lễ trước thêm chim ngói 5 con, chuối xanh hồng đỏ đầy đủ. Giỗ hậu thêm gà 1 con, vịt 1 con, vàng mã đầy đủ.
Các lễ ở trên cho phép chi tiền theo lệ, giao cho Thủ từ lo liệu bày lễ cốt sao cho sạch sẽ.
Hoặc đầu xuân mời gánh hát đến làng thì bổ thêm tiền.
Ngày Nguyên đán trở xuống và ngày nguyệt thực theo như lệ cũ mà làm.
Thượng phiên viện Án sát xứ Bùi Khánh Diễn.
Chính bát phẩm Nguyễn Văn Khánh.
Cửu phẩm Bùi Xuân Đán…

Giải pháp công nghệ giúp làm gia phả vừa tiết kiệm thời gian vừa tiết kiệm chi phí

Trước đây, việc làm gia phả thủ công tốn nhiều thời gian, chi phí, một thời gian sau phải thuê thiết kế lại khi có cập nhật thành viên, không chủ động trong quản lý.

Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội, công nghệ phát triển thì việc quản lý nhiều thành viên, nhiều đời trong họ lại vô cùng đơn giản và tiết kiệm chi phí khi có các loại phần mềm gia phả chuyên dụng hỗ trợ như:

Phần mềm Gia Phả Đại Việt

Phần mềm Quản Lý Gia phả

Phần mềm Gia Phả Số Đại Việt

Giao dục dòng họ bằng Gia phả
Hình ảnh minh hoạ _ phả đồ dòng họ

Thông tin liên hệ

Địa chỉ: Phòng 1210, tòa nhà Trinity Tower Số 145, Đường Hồ Mễ Trì, Phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, TP Hà Nội

Website : https://giaphaso.com

Hotline/Zalo: 0979.33.88.11
Email: hotro@giaphadaiviet.com

FacebookGia Phả Đại Việt